Chú thích và nguồn dẫn Nguyễn_Bỉnh_Khiêm

  1. Có tài liệu cho rằng ông đổi từ tên khai sinh là Văn Đạt thành Bỉnh Khiêm khi ông chuẩn bị đi thi cử vào năm 1535. Nghĩa của hai chữ Bỉnh Khiêm được hiểu là "giữ trọn tính khiêm nhường". Sự khiêm tốn đến mức nhún mình này còn được Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện nhiều lần trong thơ văn của ông. Như nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) đã lưu ý, sự khiêm tốn trong tính cách cùng với hành trạng xuất xử phức tạp của Nguyễn Bỉnh Khiêm là những lý do khiến người đời sau càng khó đánh giá cho chính xác về sự nghiệp của ông, khi mà hầu hết sử liệu chính thống về thời Mạc (không kể những bản văn bia thời Mạc) còn lưu lại đến nay là do những nhà nghiên cứu của các triều đại đối địch hoàn toàn với nhà Mạc viết ra.
  2. Từ "cư sĩ", lần đầu tiên được dùng trong văn chương Phật giáo trong bộ kinh Đại thừa quan trọng "Duy-ma-cật" với nghĩa là người Phật tử tri thức tại gia, tu hạnh Bồ-tát cứu nhân độ thế. Nói cách khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự xem mình là Bồ-tát với lý tưởng cứu nhân độ thế, không màng danh lợi, chứ không phải là người chủ trương sống lánh đời hay bàng quan đối với thế sự.
  3. Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đậu Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535) tại Văn miếu Mao Điền thuộc trấn Hải Dương xưa. Ngày nay Văn miếu Mao Điền (được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia) là một trong những địa điểm du lịch văn hóa nổi tiếng của tỉnh Hải Dương.
  4. Không ít tư liệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng ông chỉ được vua Mạc truy tặng tước Trình Quốc Công sau khi ông qua đời. Nhưng những tấm văn bia mới được phát hiện tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình, tiếp giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng (cần lưu ý rằng vào thời Mạc, cả hai huyện Quỳnh Phụ thuộc tỉnh Thái BìnhVĩnh Bảo thuộc TP. Hải Phòng ngày nay đều nằm trong địa giới hành chính của huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương), vào năm 2000 do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn đã bác bỏ những điều nêu trên. Sự thực thì ông đã được thăng tước Trình Quốc Công trước thời điểm năm 1568 (năm mà bản văn bia Diên Thọ kiều bi ký được Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá tại nơi ngày nay thuộc huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), tức là sớm hơn 17 năm trước khi ông qua đời (1585). [Tham khảo chi tiết trong bài viết “Hai tấm bia Trạng Trình soạn mới phát hiện ở Thái Bình” của Nguyễn Hữu Tưởng (Tạp chí Hán Nôm số 6, 2002) và bài viết “Phát hiện pho tượng Mạc ở Thái Bình” của Trang Thanh Hiền (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 355, tháng 1-2014).]
  5. Một số nghiên cứu cho rằng làng Trung Am (nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ra đời và sống trong gần 90 năm) từ xa xưa có tên là Trình Tuyền, sau đó đổi thành Cổ Am, cuối cùng là Trung Am. Theo cách hiểu này, khi làm quan cho nhà Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền hầu, rồi Trình Quốc công, tức ông quan được phong tước hầu, tước công ở làng Trình Tuyền (vì thế sứ thần nhà Thanh là Chu Xán Nhiên có thơ khen tặng “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”, nghĩa là “Người am hiểu dịch lý học ở An Nam có ông quê ở làng Trình Tuyền”) chứ không phải là “người hiểu rõ suối nguồn dịch lý học của anh em họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Bắc Tống” như lâu nay không ít nhà nghiên cứu đã giải thích. Một đặc điểm thời xưa là khi phong tước cho các công thần, các triều đại phong kiến thường lấy tên hiệu, tên tự, tên đất (quê quán) của người có công để đặt.
  6. Võ Thiện Hoa (có các bút danh là An Chi và Huệ Thiên), “Trình” trong “Trạng Trình” không phải là họ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà cũng không phải là họ của Trình Di và Trình Hạo. (Trang điện tử bachkhoatrithuc.vn). Trích dẫn phần giải thích của học giả An Chi: “Đơn giản là khi phong tước cho Nguyễn Bỉnh Khiêm thì người ta đã lấy tên đất làm hiệu để gọi. Trình Tuyền là tên đất chỉ quê gốc của ông. Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (Nhà xuất bản Lao Động, 1996) đã ghi rõ như sau: “Trình Tuyền: làng ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương, sau đổi tên là làng Trung Am, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Quê Nguyễn Bỉnh Khiêm” (tr.552). Chính vì vậy mà khi thụ phong tước hầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới được gọi là Trình Tuyền hầu. Chu Xán gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng tước do triều đình Đại Việt ban cho còn nhiều vị giáo sư và học giả người Việt Nam ngày nay thì cứ ngỡ rằng đó là họ của ông Trình Di và ông Trình Hạo ở tít tận bên Tàu.”
  7. 1 2 3 Vũ Tuấn Sán & Đinh Khắc Thuân, Bài văn bia ghi việc tạc tượng Tam giáo, chùa Cao Dương của Trình Quốc công. (Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1990)
  8. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Nguyễn Hữu Tưởng, Hai tấm bia Trạng Trình soạn mới phát hiện ở Thái Bình. (Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2002)
  9. 1 2 3 4 5 6 Trang Thanh Hiền, Phát hiện pho tượng Mạc ở Thái Bình. (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 355, 2014)
  10. Duy Phi, Trạng Kế tặng thơ Trạng Trình: Thứ vận thượng Trình Quốc công - Nối vận dâng Trình Quốc công. (TranNhuong.net, 15/9/2011)
  11. Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Bỉnh Khiêm – Người mở đầu cho những lựa chọn. (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 376, 2015)
  12. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi trong bài viết "Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc" (2009) đã nhấn mạnh: "Ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm] là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học... Là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Đến như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài (không nói về tầm vóc, thơ Nguyễn Trãi kết tinh những tư tưởng nghệ thuật đột xuất, thể hiện một cái “tôi” thao thức trước những vấn đề có thể nói là vấn nạn lịch sử, chắc chắn về số lượng thơ ông đã bị mất mát nhiều nhưng không rõ nếu còn thì có đến 1.000 bài hay không). Lê Thánh Tông tuy tỏ rõ tài năng hùng hậu về thơ, đề tài lại đa dạng, song đứng về số lượng, so với Nguyễn Bỉnh Khiêm hẳn vẫn không bằng. Bên cạnh thơ chữ Hán, thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rất dồi dào. Thơ Nôm ông có mặt không thể sánh với thơ Nôm Nguyễn Trãi, lại có mặt đánh dấu một chặng phát triển mới so với thơ Nguyễn Trãi. Rất may mắn cho chúng ta, hiện nay đã tìm được khoảng 800 bài thơ chữ Hán, 180 bài thơ Nôm của ông."
  13. Bùi Duy Dương, Thành ngữ gốc Hán trong ba kiệt tác thơ Nôm. (Tạp chí Hán Nôm, Số 5(96) 2009; tr. 44-53)
  14. Nguyễn Kim Châu, Sự phát triển của tiếng Việt văn học thế kỷ XVI qua cái nhìn đối sánh giữa "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi với "Bạch Vân quốc ngữ thi" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ, 2012)
  15. Hoàng Tịnh Thủy, Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt trong văn bản "Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập". (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm, Trường Đại học KHXH&NV, 2012)
  16. Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu trong bài viết “Kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm” (1985) đã có đánh giá mang tính tổng kết về những đóng góp quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như Nguyễn Trãi trong dòng chảy của lịch sử thơ văn Việt Nam: “...Trước hết, phải thấy rằng suốt bao nhiêu thế kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ. Trước sự sáng tạo của Nguyễn Thuyên, sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Trãi, thành quả bước đầu của Lê Thánh Tôngnhóm Tao Đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã suốt cuộc đời dành bao tâm huyết để làm thơ bằng tiếng Việt. Không chỉ nói với đồng bào mình những điều muốn nói. Ông cũng như Nguyễn Trãi đã đem hết nhiệt tình xây dựng nền văn học dân tộc mà lòng yêu nước và óc tự cường đã hằng ngày thôi thúc các ông. Với một di sản lớn lao mà ông để lại, thơ Nôm của ông đã đánh dấu một chặng đường quang vinh trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ văn ông vừa mang những nét mộc mạc và rắn chắc của thơ Nguyễn Trãi, vừa tiếp thu truyền thống trau chuốt và nhuần nhuyễn của thơ Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn. Thơ của ông chính là sự chuẩn bị cần thiết cho sự phát triển rực rỡ của thơ Nôm thế kỷ XVIII.”
  17. Trong cuốn sách Tổ quốc ăn năn (xuất bản lần đầu ở Paris năm 2001), tác giả Nguyễn Gia Kiểng có đưa ra những nhận xét:
    ...Nói tới văn hóa Việt Nam thực ra chỉ là nói đến thơ văn. Và thơ văn của chúng ta chỉ xuất hiện từ thời nhà Lý, nghĩa là từ thế kỷ 11 trở đi. Trước đó chúng ta có rất ít dấu tích thơ văn Việt Nam. Có thể là do hoàn cảnh lịch sử, những thơ văn của người Việt đã có trước thế kỷ 11 nhưng đã bị thất lạc. Nhưng cứ nhìn vào thành tích thơ văn của bốn thế kỷ Lý Trần, ta có thể khẳng định là thơ văn Việt Nam trước đó nếu có cũng không đáng kể, cả về phẩm lẫn lượng. Bốn trăm năm độc lập, dưới hai triều đại mà chúng ta cho là huy hoàng nhất trong lịch sử, chắc chắn thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại so với thời gian trước. Vậy nhìn vào thơ văn Lý Trần ta có thể hình dung được thơ văn trước đó.Những công trình khảo cứu đã tổng kết được khoảng hơn sáu trăm bài thơ và văn đủ loại trong bốn thế kỷ. Cứ coi là một số đã bị thất lạc và cộng thêm một ngàn bài nữa để đưa con số này lên một ngàn sáu trăm thì, nói chung, chúng ta cũng chỉ sáng tác được mỗi năm bốn bài. Các bài lại thường thường rất ngắn, có khi chỉ vài câu thôi. Trung bình mỗi bài chưa tới một trăm chữ. Như vậy, ngay cả nếu ước lượng một cách rất rộng rãi thì trung bình trong bốn thế kỷ cực thịnh đó cả nước đã chỉ sáng tác được mỗi ngày một chữ!Có một sự kiện cần lưu ý là sau khi tiêu diệt được nhà Hồ (năm 1407), hoàng đế Trung Quốc là Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho quân Minh thu thập rồi tiêu hủy hay chở về Trung Quốc các tác phẩm bằng chữ Nho của Việt Nam. Lệnh này đã không được thi hành nghiêm túc (tại sao? phải chăng là các quan nhà Minh thấy chẳng có gì đáng kẻ?) nên Minh Thành Tồ phải ra một lệnh thứ hai quở trách quan tướng nhà Minh và đòi phải thi hành triệt đề. Nhà Minh đã cướp mất của chúng ta những gì không ai biết rõ. Trong "Việt Nam sử lược", Trần Trọng Kim dựa vào các pho sử có trước nói rằng quân Minh đã lấy của chúng ta 24 bộ sách. Thực tế có thể là hơn. Nhưng dựa vào những gì còn lại ta có thể kết luận là cũng không có gì đáng tiếc lắm, ít nhất về phẩm. Chúng ta hay nói tới các tác phầm của Chu Văn An, nhưng dựa vào những gì còn sót lại của Chu Văn An thì cũng có thể kết luận rằng các tác phẩm của ông cũng không có giá trị đặc biệt nào.Thơ văn Việt Nam thực ra chỉ khởi sắc dưới thời Hậu Lê với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và chỉ phát triển mạnh từ thế kỷ 18 trở đi để đạt tới cao điểm vào thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, với các tác giả lớn như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê… Sự khởi sắc đột ngột này có một nguyên nhân quan trọng, đó là thắng lợi của chữ Nôm trên chữ Hán.
  18. Bùi Duy Dương, Thành ngữ gốc Hán trong ba kiệt tác thơ Nôm. (Tạp chí Hán Nôm, Số 5 [96], 2009)
  19. Nguyễn Huệ Chi, Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 26/11/2011)
  20. Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm và văn bản thơ Nôm. (Trang điện tử của Hội nhà văn Hải Phòng, 16/11/2015)
  21. Danh sĩ Nguyễn Thiếp (1723-1804) từ xứ Nghệ về trấn Hải Dương (xứ Đông) với mong muốn tìm lại những dấu tích gắn với cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã cảm tác bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự (Qua chùa cũ của Trình Tuyền), trong đó có những câu ca ngợi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có khả năng “áo cơ thâm tạo hóa” (mưu cơ thâm kín can dự vào công việc của tạo hóa) và “phiến ngữ toàn tam tính” (chỉ một lời mà bảo toàn cho cả ba họ).
  22. Cho tới nay, đã có không ít nhà nghiên cứu nêu ra quan điểm bác bỏ một mối liên hệ lịch sử nào đó (dù trực tiếp hay gián tiếp) giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Hoàng. Tuy nhiên, vai trò then chốt của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong quyết định Nam tiến của Nguyễn Hoàng là điều đã được các bộ sử liệu chính thức dưới triều nhà Nguyễn (biên soạn bởi Quốc sử quán triều Nguyễn) là “Đại Nam nhất thống chí” và “Đại Nam thực lục” khẳng định. Chẳng hạn, sách Đại Nam thực lục có đoạn: “Chúa [Nguyễn Hoàng] nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân ngâm lớn rằng: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được). Sứ giả đem câu ấy về thuật lại. Chúa hiểu ý.”. Hay trong Đại Nam nhất thống chí cũng có đoạn: “Đức Thái tổ Hoàng đế triều ta [Nguyễn Hoàng] luôn bị họ Trịnh chèn ép bức bách, muốn dời đi nơi khác, đã sai người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông trả lời: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân (nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được). Sau bản triều xây dựng cơ nghiệp ở miền Nam, lời ông quả ứng nghiệm.”
  23. 1 2 Hoàng Hải Vân, Bí ẩn trầm hương - Kỳ 1: Vài dòng lịch sử. (Báo Thanh Niên điện tử, 03/01/2011)
  24. Nguyễn Khắc Mai, Bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” - một dự báo chiến lược thiên tài của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 20/7/2013)
  25. Anh Việt, Trạng Trình dạy nắm giữ biển Đông. (Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam, 09/05/2014)
  26. dịch nghĩa nôm là: một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ. Có thể ở đây (trong bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự) Nguyễn Thiếp muốn đề cập đến ba dòng họ thế lực Lê-Trịnh-Nguyễn cùng phát tích ở xứ Thanh.
  27. Nguyễn Khắc Mai, Minh triết về làm chủ biển Đông. (Trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, 18/01/2011)
  28. 1 2 Hồng Chuyên & Lại Hà, Hoàng Sa, Trường Sa mãi còn, nếu tâm thức biển đảo còn. (Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông [Infonet.vn], 02/12/2013)
  29. Thành Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm - Người đầu tiên sử dụng quốc hiệu Việt Nam. (Trang tin điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, 20/9/2006)
  30. Nguyễn Đình Minh, Trạng Trình và hai tiếng Việt Nam. (Trang điện tử của Hội nhà văn Hải Phòng, 13/1/2015)
  31. Nguyễn Công Lý, Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan. (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại Học Quốc gia TP.HCM, 2009)
  32. 1 2 Nguyễn Công Lý, Bậc sư biểu bên bờ Tuyết Giang. (Bản tin Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP. HCM, số 41, tháng 11-2011)
  33. 1 2 Nguyễn Thanh Tùng, Khi nhân cách lớn bị hoài nghi: Giải đọc hai bài thơ “giải trào” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội, 2013)
  34. 1 2 Trần Văn Lạng & Nguyễn Văn Phong, Phát hiện sách đá ở mộ thân phụ Trạng nguyên Giáp Hải. (Thông báo Hán Nôm học, 1998, tr. 235-239)
  35. 1 2 Quốc Khánh, Bia hộp thời Mạc - dấu tích của Trạng nguyên Giáp Hải. (Báo Bắc Giang điện tử, 30/09/2017)
  36. Vào đầu thế kỷ XVI, khi nhà Lê sơ bắt đầu đi vào giai đoạn suy thoái, trong dân gian xuất hiện câu sấm "Phương Đông có khí sắc thiên tử" (phương Đông ở đây là muốn ám chỉ xứ Đông, tức là trấn Hải Dương vào thời Lê) nhưng không biết câu sấm đó ứng nghiệm vào ai. Nhà Lê sơ lo sợ không biết phải làm thế nào nên đã cho thuật sĩ về Đồ Sơn trấn yểm. Sau này người đã phế bỏ ngôi vị của nhà Lê sơ để lập ra nhà MạcMạc Đăng Dung chính là người huyện Nghi Dương thuộc trấn Hải Dương (nay là huyện Kiến Thụy của thành phố Hải Phòng). Bởi vậy xét về mặt quê quán, Mạc Đăng Dung và Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể coi là đồng hương vì cả hai đều là người xứ Đông hay trấn Hải Dương (nay thuộc địa phận Hải Phòng).
  37. Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ (bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trị của Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định). Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Văn Đạt khi đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm. [Tham khảo thêm bài viết “Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan” của tác giả Nguyễn Công Lý (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại Học Quốc gia TP.HCM, 2009)]
    Một điều nữa là bà Nhữ Thị Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như truyền thống có từ xưa. Hiện nay, phần mộ của vợ chồng Tiến sĩ Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục đã được tôn tạo, đưa vào trong quy hoạch của khu di tích bên họ ngoại Trạng Trình.
  38. Nhiều tài liệu cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn tham chính sau khi đã từ quan năm 1542 (sau 8 năm đầu làm quan dưới triều Mạc), trở về sống và mở trường dạy học ở quê nhà cho đến khi qua đời. Sự thật không hoàn toàn như vậy. Khoảng thời gian gần hai chục năm sau đó, ông chủ yếu làm quan tại gia, đóng vai trò cố vấn từ xa cho vua và chỉ về triều khi cần bàn việc chính sự hay theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn. Trong thơ của ông cũng như của người bạn vong niên là Tô Khê hầu Giáp Hải nhiều lần đã khẳng định điều này. Ông chỉ thực sự treo ấn từ quan, về nghỉ ở quê nhà khi đã ngoài 73 tuổi dưới thời trị vì của vua Mạc Mậu Hợp.
    Xung quanh những bàn luận trái chiều của các nhà nghiên cứu về vai trò thực sự cũng như những đóng góp cụ thể của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong triều Mạc, Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) nhận định:
    Khi nhà Mạc giành ngôi nhà Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở tuổi 37 (1491-1527). Và khi vua cha Mạc Thái Tổ nhường ngôi cho vua con là Mạc Thái Tông thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 40 tuổi, nghĩa là đúng vào cái tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”. Ngoài những đợt nghỉ ngắn hạn, ông chỉ chính thức “huyền xa” (về trí sĩ) vào năm đã ở tuổi 73: “Điểm kiểm hành niên thất thập tam / Huyền xa sai vãn đã ưng tàm” (Đếm tuổi mình đã bảy mươi ba / Treo xe hơi muộn, cũng nên thẹn). Ông còn ân hận vì sức yếu rồi nên không giúp rập nhà vua được nữa: “Trì khu tự hứa ta vô lực / Vinh tiện hà cầu khởi thị tham” (Vốn tự thẹn đua bay với người, than ôi không đủ sức / Không cầu sang hèn đâu phải là tham) [Về hưu gửi quan Thượng thư bộ Lại Kế Khê bá Giáp Hải]. Trong khoảng 30 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hết lòng phò 4 triều vua Mạc – hành trạng của ông, thơ văn của ông và các bạn đồng liêu của ông đã minh định điều đó. Và phải lý giải sao cho thỏa đáng khi ông được phong tặng rất nhanh những chức tước quan trọng dưới triều các vua Mạc? Lý giải sao cho thấu tình đạt lý về hơn hai chục bài thơ nói về việc hộ giá nhà vua đi đánh giặc và không phải chỉ đi một lần? Chỉ cần đọc kỹ 4 bài viết về chuyện “hộ giá…” và sáu bài “Qua sông.. Hữu” cũng đủ hiểu cảm hứng và lòng chân thực của ông. Và tôi nhất trí hoàn toàn với Ngô Đăng Lợi rằng không thể coi lời thơ khen tặng của Lại bộ thượng thư Giáp Hải đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là “lời nói vu vơ không căn cứ”: “Danh quán Nho gia lôi phấn địa / Lực phù nhật cốc trụ kình thiên / Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt / Cửu lão quang nghi thế thượng tiên.” (Tiếng tăm ông lừng lẫy làng nho như sấm rền mặt đất / Năng lực của ông phò vua như cột chống đỡ trời / Huân nghiệp trải bốn triều, ông là tài năng kiệt xuất giữa cõi người / Dung nghi rực rỡ của tuổi chín mươi, ông khác gì vị tiên nơi trần thế.).Rõ ràng tuổi tác, hành trạng và tác phẩm của ông đã chứng minh rằng ông đi thi ở tuổi 44 và làm quan với nhà Mạc cho đến tận năm 73 là hoàn toàn tự nguyện, chẳng có chứng cứ nào nói lên rằng ông miễn cưỡng hay bị bó buộc. (...) Theo những chứng cứ mà tôi thu lượm được trong thư tịch xưa trên những văn bản đáng tin cậy thì không hề có chuyện vua Mạc mang theo đi trong hàng quân của mình một ông già đầy uy vọng nhưng lại thiếu tài thao lược. Trước hết phải nói rõ rằng nhà Mạc không hề thiếu những người có tài thao lược, chuyện này tôi sẽ đưa đủ chứng cứ trong phần bàn về nhà Mạc. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thiếu tài thao lược hoặc không lập nên công trạng gì đáng kể hẳn vua Mạc không cần phong tặng ông những chức tước quan trọng như thế (chức Lại bộ Thượng thư, Thái phó, tước Trình quốc công). Cũng không nên quá tin vào lối nói khiêm nhượng của ông mà tưởng thật rằng ông thiếu tài cán hoặc sự đóng góp mưu kế của ông là không đáng kể...
    GS. Vũ Khiêu cũng có những quan điểm tương đồng với Trần Khuê, “Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.”
  39. Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ (tác giả của Truyền kỳ mạn lục) cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm hoàn toàn thống nhất của giới nghiên cứu văn học cũng như lịch sử. [Tham khảo thêm bài viết “Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan” của tác giả Nguyễn Công Lý (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại Học Quốc gia TP.HCM, 2009)]
  40. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nguyên văn câu nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm với sứ giả của Nguyễn Hoàng (được chép lại trong bài Phả ký của Vũ Khâm Lân) phải là "Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân" (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được) chứ không phải là "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời) như phần lớn tài liệu đã dẫn. Nguyên nhân của sự sai khác này được lý giải là do các sử gia nhà Nguyễn sau này đã sửa đổi hai chữ "khả dĩ" thành "vạn đại", với hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp của triều đại tới muôn đời.
  41. Dịch nghĩa: Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình
  42. Dịch nghĩa: Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu / Mười ba đời sau, khác biệt mà cùng chung. Hai câu này được cho là lời tiên tri của Trạng Trình về sự phục hồi (vấn tổ tầm tông) lại tên họ của con cháu hậu duệ họ Mạc sau khi phải thay tên đổi họ lúc nhà Mạc bị thất thủ (1592), nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh.
  43. Dịch nghĩa: Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh lâu dài
  44. Dịch nghĩa: Từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc / Được nước nên biết đó là do ở chỗ được lòng dân
  45. Dịch nghĩa: Từ xưa đến nay chỉ có người nhân nghĩa là không ai địch nổi / Việc gì phải khư khư ôm mộng chiến tranh giết chóc
  46. Dịch nghĩa: Tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi / Cùng, thông, đắc, táng, ta có lo cho riêng mình đâu.
  47. Dịch nghĩa: Cái mũ nhà Nho tự biết đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ / Ăn bằng vạc, có ai là kẻ vì nước mưu toan
  48. Dịch nghĩa: Rốt cục (ai) muốn tìm cái chỗ vui của ta / Thì cần biết rằng ta được vui sau thiên hạ vì biết lo trước thiên hạ
  49. Dịch nghĩa: Nỗi lòng lo đời biết nói cùng ai / Chỉ có tiếng chuông chùa trên núi vắng lúc nửa đêm san sẻ
  50. Dịch nghĩa: Trời sinh ra dân chúng / No ấm là điều ai nấy đều mong muốn
  51. Dịch nghĩa: Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ / An nhàn ta là tiên trong đời
  52. “Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình”. Báo điện tử VTC News. Truy cập 27 tháng 9 năm 2015. 
  53. 1 2 Vũ Khiêu, Kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Tạp chí Xã hội học số 1, 1986)
  54. Minh Chi (Học viện Phật giáo Việt Nam), Bàn về chữ "nhàn" trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Trang điện tử Đạo Phật Ngày Nay)
  55. Tâm Quang, Nghệ thuật Thiền qua bài thơ “Cảnh nhàn” của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Trang điện tử Phật tử Việt Nam, 24/10/2006)
  56. Nguyên Khôi, Bàn về chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm để hiểu về đạo đức người trí thức Nho học ngày xưa. (Tạp chí Thanh niên Phía Trước, 23/11/2013)
  57. Nguyễn Thế Duyên, Một góc nhìn khác về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Vandanviet.com, 13/11/2015)
  58. Nguyễn Đình Minh, Trong nhịp sống hiện đại, nghĩ về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Trang điện tử của Hội nhà văn Hải Phòng, 06/1/2016)
  59. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), tập 2, tr. 1274
  60. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), tập 2, sđd
  61. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (bản dịch), tập 3, tr.29, Nhà xuất bản. Giáo dục, 2001
  62. Nguyễn Quang Ngọc, Chúa Tiên và công cuộc mở cõi của dân tộc. (Tạp chí Cửa Việt số 230, Diễn đàn Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, tháng 11 năm 2013). Trích dẫn tác giả: "Là con trai và là niềm kỳ vọng lớn của người tái lập triều Lê, nhưng Nguyễn Hoàng lại tin tưởng và ủy thác vào nhà trí thức kiệt xuất của vương triều Mạc - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sách Đại Nam thực lục tiền biên chép: “Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân ngâm lớn rằng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.”"
  63. Hoàng Hải Vân, Viết sử và đọc sử, kỳ 2: Sự 'hèn nhát' vĩ đại. (Báo điện tử Một Thế giới, 23/04/2016). Trích dẫn lời tác giả bài viết: “Có lần gặp thiền sư Lê Mạnh Thát, tôi hỏi ông đánh giá như thế nào về nhà Mạc, ông bảo hãy nhìn ông Nguyễn Bình Khiêm, dù học rộng tài cao nhưng dứt khoát không chịu đi thi dưới triều Lê bấy giờ đã ruỗng nát, ông chỉ đi thi khi nhà Mạc lên thay, lúc đã hơn 40 tuổi và làm quan cho nhà Mạc. “Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là hình ảnh của nhà Mạc”, thầy Lê Mạnh Thát nói.”
  64. Đỗ Kim Trường, Nhìn lại buổi đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng. (Trang điện tử Chim Việt Cành Nam)
  65. Trong “Xứ Đàng Trong”, Li Tana, tr.37, 38.
  66. Li Tana, “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th Century”. (Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 29, No. 1, 1998)
  67. Dịch thơ: “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ / Đất Việt muôn năm vững trị bình”
  68. Cự ngao đới sơn (phiên âm Hán-Việt)Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,Trước cước trào vô quyển địa thanh.Vạn lý Đông minh quy bả ác,Ức niên Nam cực điện long bình.Ngã kim dục triển phù nguy lực,Vãn khước quan hà cựu đế thành.Con ngao lớn đội núi (dịch nghĩa)Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua.
  69. Hồng Chuyên, Làm chủ biển đảo: Không chỉ có bảo vệ chủ quyền. (Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông [Infonet.vn], 03/12/2013)
  70. Hồng Chuyên & Lại Hà, Tâm thức biển đảo qua lời "sấm truyền" của Trạng Trình. (Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông [Infonet.vn], 07/12/2013)
  71. Nguyễn Khắc Mai, Bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” - một dự báo chiến lược thiên tài của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 20/7/2013)
  72. Nguyễn Đình Minh, Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước. Nhân đọc bài thơ “Cự ngao đới sơn” trong “Bạch Vân am thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. (Trang điện tử của Hội nhà văn Hải Phòng, 30/12/2013)
  73. Viên Linh, Trạng Trình, hồn chữ nghìn thu. (Người Việt Online [www.nguoi-viet.com], 24/12/2013)
  74. tức Chu Đôn Di (1017–1073)
  75. tức Trình Di (1033–1107)
  76. Quá Trình Tuyền mục tự (phiên âm Hán-Việt)Tích văn Mạc Trình TuyềnKim đáo Tuyết kim tânCổ quán dư thương kệDi am chỉ Bạch vân.Bắc giang tăng Vạn Hạnh,Nam độ Tấn Tham QuânThao thao trục lưu MácChân tri hữu kỷ nhânViêm vận tao dương cửuGian hùng xuất chấn phươngTiêu sơn tăng dĩ hỉBạch Vân bất khả đương.Áo cơ thâm tạo hóaNhàn khí miểu công vương.Phiến ngữ toàn tam tínhHồn hỗn vị dị lương.Am không bi diệc diệtLưu lạc Tuyết kim giang.Qua chùa cũ của Trình Tuyền (dịch nghĩa)Xưa nghe tiếng người (làng) Trình Tuyền đời MạcNay đến bên sông Tuyết KimQuán cổ còn lại tấm bia đá phủ rêu xanhDấu vết am chỉ còn mây trắng.Bắc Giang có Sư Vạn HạnhBến đò Nam có Tấn Tham QuânNước cuồn cuộn chảy xuống cuối dòngCó mấy ai được là “chân tri”Vận nước vùng nóng nực này gặp lúc rủi roỞ phương Đông xuất hiện kẻ gian hùng,Nhà sư ở chùa Tiêu Sơn không còn nữaBạch Vân cũng khó đảm đương nỗi.Mưu cơ sâu kín tham dự vào việc của tạo hóaPhong khí nhàn nhã xa cách các bậc công vươngChỉ câu nói ngắn mà bảo toàn được ba họRất hồn nhiên mà không dễ suy đoán đượcAm không, bia cũng hỏng mấtSông Tuyết Kim vắng vẻ đìu hiu.
  77. Thích Phước An, Nhà thơ của "Am mây trắng" thế kỷ XVI có bài bác Phật giáo hay không ?
  78. Ngô Minh Khiêm, Đôi nét về Nguyễn Bỉnh Khiêm qua tài liệu mộc bản triều Nguyễn.
  79. Cần nhớ rằng Trình Tuyền không phải tên húy, tên tự, hay tên hiệu của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà là tên cũ của quê nội ông, làng Trung Am trước thời ông. Người đời sau thường dùng tên địa danh này để gọi thay cho tên riêng của ông. Nhiều nhà nghiên cứu cho đến nay vẫn bị nhầm lẫn khi gắn tên gọi Trình Tuyền (theo nghĩa nôm là: nguồn suối học thuật của họ Trình) với họ của hai anh em nhà dịch lý học nổi tiếng thời Bắc Tống là Trình Di (1033–1107) và Trình Hạo (1032–1085).
  80. tức Thiệu Ung hay Thiệu Khang Tiết (1011–1077), nhà dịch học nổi tiếng thời Bắc Tống.
  81. Nguyễn Dữ (?–?), thường được cho là tác giả của Truyền kỳ mạn lục, người xứ Đông nhà Mạc nhưng sống ẩn cư không theo phe phái nào.
  82. Dương Văn An (1514–1591), thường được biết là tác giả của Ô châu cận lục, sinh trưởng ở đất Quảng Bình thế kỷ 16 nhưng không theo nhà Lê-Trịnh (khi đó đang kiểm soát cả một vùng đất rộng lớn thuộc xứ Thanhxứ Nghệ) mà theo nhà Mạc.
  83. Phùng Khắc Khoan (1528–1613), sinh trưởng ở đất Hà Tây thuộc nhà Mạc thế kỷ 16, thường được xem là học trò ưu tú của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng không theo nhà Mạc mà trở thành công thần nhà Lê-Trịnh.
  84. Lương Hữu Khánh, người xứ Thanh, con của đại thần cuối triều Lê sơ là Lương Đắc Bằng, thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lương Hữu Khánh cũng được xem là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng không theo nhà Mạc mà sau trở thành công thần nhà Lê-Trịnh giống như Phùng Khắc Khoan.
  85. Đào Duy Từ (1572–1634), người xứ Thanh nhưng vì là con của tầng lớp ca kỹ bình dân mà không được nhà Lê-Trịnh thu dụng, sau trở thành công thần hàng đầu của họ Nguyễn ở Đàng Trong (thời chúa Nguyễn và thời nhà Nguyễn).
  86. Trần Khuê, Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc. (Tham luận hội thảo khoa học “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc” do Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm tổ chức, Viện KHXH tháng 10-1991)
  87. Nguyễn Hữu Sơn, Đời và thơ Phùng Khắc Khoan trong bối cảnh văn hóa Đại Việt thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII. (Cổng giao tiếp điện tử Huyện Thạch Thất - TP Hà Nội, 15/10/2013)
  88. Trần Ngọc Vương, Lưỡng đầu chế thời Lê-Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó. (Viện nghiên cứu Hán Nôm - hannom.org.vn, 21/11/2007)
  89. Nguyễn Văn Tịnh, Sáng mãi truyền thống “Tôn sư, trọng đạo”. (Bộ môn Tâm lý và Giáo dục, Trường Đại học Hà Tĩnh, 16/11/2015)
  90. Hai chữ Chu và Trình ở đây là muốn nhắc đến học phái Tống Nho Trình-Chu chuyên về dịch lý do các học giả thời Bắc TốngChu Đôn Di/Châu Đôn Di (1017–1073), Trình Di (1033–1107) và Trình Hạo (1032–1085) xây dựng. Sau này nó được hoàn thiện bởi Chu Hy (1130–1200) sống thời Nam Tống.
  91. Ở thời Mạc, một phần của đất Thái Bình hiện nay nằm trong địa phận của huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương.
  92. tức Nguyễn Bỉnh Khiêm
  93. Phùng Khắc Khoan thường được các nhà nghiên cứu xem là học trò ưu tú nhất trong số nhiều môn sinh theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thậm chí trong dân gian còn lưu truyền giai thoại Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác cha.
  94. Lúc còn sống, Phùng Khắc Khoan được phong tới tước hiệu cao nhất là Quận công (Mai Quận công), còn Nguyễn Hoàng được phong tới tước cao nhất là Quốc công (Đoan Quốc công).
  95. “Chúc văn tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - GS Vũ Khiêu”
  96. Lê Văn Lan, Từ Trung Am tới Hoa Am - một danh nhân văn hóa - cây đại thụ của văn hóa Việt Nam tỏa bóng suốt thế kỷ XVI. (Cổng Giao tiếp điện tử Thành phố Hà Nội - Phường Long Biên, 18/04/2013)

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nguyễn_Bỉnh_Khiêm http://vandanviet.blogspot.com/2015/11/nguyen-duye... http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vh/004-nhan... http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tu_tuong... http://www.nhipcaugiaoly.com/post?id=175 http://tapchivanhoaphatgiao.com/suu-tam/hanh-phuc-... http://vanhaiphong.com/xem/10-tap-van/326-tam-nhin... http://vannghesontay.com/en/news/Nghien-cuu-trao-d... http://vncphathoc.com/bai-nghien-cuu/phat-kinh-tro... http://chimviet.free.fr/lichsu/dokimtruong/dokimtr... http://phusaonline.free.fr/ButViet/ThichPhuocAn/15...